Thiền là sống ngay thực tại

1. Sống lầm, mất mình
Lâu nay chúng ta sống ở trên đời, nhưng Phật nói mỗi người sống ở đây mà không có thực sống. Vì chúng ta sống mà đánh mất chính mình, sống mà đánh mất thực tại, nên thiếu đi ý nghĩa sống. Như chúng ta đang ngồi đây nghe pháp, nhưng có thực là chúng ta đang ở đây không hay là đang ở đâu? Có khi thân đang ngồi ở đây nhưng tâm để ở nhà, hoặc tâm đang đi lang thang ngoài đường. Đó gọi là sống mất mình, sống với cái đã chết. Cho nên đa số chúng ta luôn luôn đi tìm cái để sống, do thấy thiếu nên tìm cầu. Nhà thiền gọi là cỡi trâu đi tìm trâu.


Có câu chuyện: Gần ngôi Thiền viện có một tiệm bán đậu hũ. Ông chủ bán đậu hũ có tính hiếu kỳ, không biết ở ngôi thiền đường mấy ông thầy làm gì ở trong đó. Nên ông năn nỉ vị sư Hương đăng trông coi việc ở thiền đường, xếp cho ông vào trong đó. Ông cũng ngồi thiền với quý thầy, nhưng ông ngồi một góc ở phía dưới để quan sát cho biết. Thời gian ngồi thiền là một nén hương, khoảng một giờ. Ông tréo chân ngồi, thấy cảnh lặng lẽ khác thường hơn ở nhà, ai cũng ngồi im không ai ngó qua ngó lại.
Ông lén lén mở mắt ra, nhìn qua nhìn lại thấy ai cũng mắt ngó xuống, ông cũng bắt chước theo ngồi yên mắt ngó xuống. Bình thường ông sống ở ngoài, bận rộn lăng xăng trong sinh hoạt hàng ngày, bây giờ được một chút duyên ngồi yên trong khung cảnh trang nghiêm lặng lẽ, tâm cũng lặng xuống chút ít. Khi tâm lắng xuống, ông thấy những chuyện quá khứ nó trồi lên, vì lâu nay lăng xăng không có thời gian nhớ bây giờ ngồi yên nó nhớ lại rõ ràng. Sau khi về nhà rồi, gặp ai ông cũng khen ngồi thiền hay quá, tôi thực tập có một buổi thôi mà cảm nhận rất là sáng suốt. Hôm đó, tôi đã nhớ ra được ông lão họ Vương kia mua đậu hũ của tôi tổng cộng còn thiếu năm đồng mà lâu nay tôi quên, giờ nhớ là ông chưa trả.
Mọi người bình thường nghe cũng thấy vui vẻ, nhưng với người chuyên tu thiền thì thấy ông đang ngồi thiền ở trong thiền đường, nhưng tâm ông về nhà bán đậu hũ. Như vậy rõ ràng sống mà đánh mất chính mình. Cũng như chúng ta ngồi đây nhưng không có thực tại sống ở đây, chỉ sống với bóng của quá khứ hoặc ảo tưởng tương lai. Sống với thực tại là ngay bây giờ ở đây, chúng ta phải có mặt sự tỉnh thức ngay đây, chứ không phóng tâm lang thang, mất mình.
Thiền sư Cảnh Thanh đang ngồi, liền hỏi vị tăng bên cạnh:
– Ở bên ngoài là tiếng gì?
Lúc đó trời đang mưa, nên ông tăng thưa:
– Là tiếng mưa rơi.
Thiền sư Cảnh Thanh bảo:
– Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật.
Ông tăng hỏi:
– Còn Hòa thượng thì thế nào?
Ngài đáp:
– Vẫn chẳng quên mình.
Đa số người là sống như vậy, đang ngồi đây, nghe tiếng mưa rơi thì chạy ra ngoài hiên, tâm nhớ theo tiếng mưa rơi nên quên mất cái gì đang nghe, đang biết. Thiền sư hỏi bên ngoài là tiếng gì, tức muốn nhắc ông tăng nhớ lại cái gì đang nghe, đang biết rõ ràng, đang hiện có mặt ở đây, chứ không phải ý ngài ở ngoài mái hiên. Nhưng vị tăng quen sống theo duyên, tâm duyên theo tiếng mưa rơi bên ngoài nên chỉ nghe tiếng mưa rơi. Do đó, Thiền sư nói: “Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật”, quên chính mình đây mà chạy theo bên ngoài. Vị tăng hỏi lại: “Còn Hòa thượng thì thế nào?”, Ngài đáp: “Vẫn chẳng quên mình”. Thiền sư cũng nghe tiếng mưa rơi, biết rõ tiếng mưa rơi nhưng vẫn không quên mình. Sống như vậy mới gọi là không mất mình, chứ còn ngồi đây mà chạy theo tiếng là quên mất chính mình, là đánh mất thực tại đang hiện hữu.
2. Sống ngay thực tại, bây giờ
Trong nhà thiền luôn nhắc mọi người, phải sống trở về với cái thực tại đang hiện hữu sáng ngời, đó là thiền chân thật. Thiền dạy hành giả là sống trở về ngay thực tại, bây giờ và ở đây. Mặt trời tâm phải luôn luôn mọc ngay đây, luôn chiếu sáng không cho mây che khuất. Thiền sư Pháp Loa, Tổ thứ hai của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, có lần ngài Pháp Loa hỏi Tổ Trúc Lâm:
– Khi muôn dặm mây tạnh thì thế nào?
Tổ Trúc Lâm đáp:
– Mưa tầm tã.
Lại hỏi:
– Khi muôn dặm mây che kín hết thì thế nào?
Đáp:
– Trăng vằng vặc.
Theo tâm lý thế gian nghe vậy là không hiểu gì hết, nói chuyện ngược đời. Muôn dặm mây tạnh tức là trời trong sáng, không có vết mây thì làm sao mưa, đây Ngài lại đáp: “Mưa tầm tã”. Còn hỏi: “Muôn dặm mây che kín hết” là đang mưa, mà Ngài lại đáp: “Trăng sáng ngời”. Theo thế gian thấy giống như nghịch lý, nhưng trong nhà thiền là đánh thức cho hành giả sống trở về ngay thực tại sáng ngời, phải sống “ngay bây giờ đây”.
Muôn dặm mây tạnh, tức là trời trong sáng, trời trong sáng đây có hai ý: Thiền sư vừa mượn hình ảnh trời trong sáng, nhưng cũng muốn nói bầu trời tâm của mình trong sáng không có vết mây, mà ông còn hỏi chi cho động niệm, động niệm là mây mưa tầm tã rồi. Câu thứ hai hỏi: “Muôn dặm mây che kín thì sao?”. Nếu nói tâm mình bị che kín, không còn chỗ nào để ló đầu. Vậy ai biết hỏi đây, đã biết hỏi thì đâu có che, nên Sơ Tổ đáp: “Trăng sáng ngời”. Tâm vẫn hiện hữu sao còn chưa tỏ ngộ? Chúng ta thấy Thiền sư đáp, mới nghe dường như nghịch lý, nhưng hiểu ra thì rất chí lý.
Quả thật, tâm thiền của Ngài luôn luôn hiện hữu sáng ngời, chưa từng vắng mặt bao giờ. Ngay lúc đang hỏi đáp, tâm của Ngài vẫn sáng nên đáp một cách trực tiếp bén nhạy. Chân lý thiền rất đơn giản, gần gũi đâu có gì xa lạ. Ngay thực tại đây thôi. Ngay chỗ chúng ta ngồi đây, biết sống trở về là thiền là đạo. Nhưng do con người quen thêm vào, quen tưởng tượng nên thành ra rắc rối, khó hiểu. Nếu chúng ta buông bỏ những tưởng tượng thì thiền rất đơn giản.
Như câu chuyện trà Triệu Châu. Có vị tăng đến chỗ Thiền sư Triệu Châu. Ngài Triệu Châu liền hỏi:
– Ông từng đến đây chăng?
Vị tăng thưa:
– Đã từng đến.
Triệu Châu liền bảo:
– Vậy thì uống trà đi!
Vị tăng khác đến, Sư hỏi:
– Ông từng đến đây chăng?
Vị tăng thưa:
– Chưa từng đến.
Sư cũng bảo:
– Uống trà đi.
Vị viện chủ thấy vậy thắc mắc hỏi:
– Từng đến cũng bảo uống trà đi, chưa từng đến cũng bảo uống trà đi, vậy là sao?
Ngài Triệu Châu liền gọi:
– Viện chủ.
Viện chủ đáp:
– Dạ.
Sư cũng bảo:
– Uống trà đi!
Mới nghe thấy giống như thầy trò đùa chơi, nhưng đó chính là đánh thức cho người học sống trở về ngay thực tại đang hiện hữu, không khởi thêm niệm gì khác. Ông đã từng đến đây, có mặt tại đây thì còn hỏi gì nữa, uống trà đi là xong. Vị tăng kia bảo ông chưa từng đến, chưa từng đến vậy ai đang đứng đây? Đang đứng đây tức là đã đến rồi, mà nói chưa từng đến là ông đang nhớ về chuyện quá khứ hôm qua, hôm kia. Hiện tại đang đứng đây thì ông đang ở đây, cho nên cũng uống trà đi, là xong. Vị viện chủ cũng giống như mình, chuyện đến hay chưa đến là việc của người ta, không dính dáng gì tới ông hết. Gọi thì ông biết dạ, ngay đó đủ rồi khỏi phải hỏi thêm chuyện của người chi nữa, cũng uống trà đi là xong.
Chúng ta thấy các Thiền sư rất thực tế, đang ở đây thì có mặt ở đây, nghĩ cái khác là quên mất thực tại đang hiện hữu gọi là mất mình, là mặt trời bị mây che, cần phải tỉnh lại là xong. Có lần Thiền sư Huyền Sa đang ngồi chỉ một điểm trắng ở dưới nền đất, Ngài hỏi ông tăng kế bên:
– Ông có thấy không?
Vị tăng thưa:
– Dạ thấy.
Ngài nhấn mạnh trở lại:
– Ông có thật thấy không?
Vị tăng nói:
– Dạ thấy.
Ngài hỏi thêm lần thứ ba nữa:
– Ông thấy thật không?
Vị tăng nói:
– Dạ thấy.
Ngài Huyền Sa mới bảo:
– Ông cũng thấy, ta cũng thấy. Vì sao nói là chẳng hội?
Như bây giờ bình hoa ở đây, ai cũng thấy mà sao có người ngộ có người chẳng ngộ? Hai người đồng thấy một điểm trắng rõ ràng, nhưng Thiền sư thì ngộ còn vị tăng chẳng ngộ, là vì vị tăng thấy nó nhưng lại chạy theo nó nên quên mất chính mình. Chúng ta ở đây cũng vậy, nhìn thấy bình hoa rồi đồng hóa mình với bình hoa nên quên mất thực tại. Học thiền rất đơn giản, thực tế ngay trong cuộc sống, ngay nơi thực tại đây thôi. Nhưng chúng ta không thấy được là do tâm mình quen tưởng tượng xa xôi.
Có lần một học giả đến học đạo với Thiền sư Việt Khê, người Nhật Bản. Ông tha thiết hỏi về thiền đạo:
– Bạch thầy! Con đã nghiên cứu về Phật học, Nho học hơn hai mươi năm. Những điều đó con hiểu rất nhiều, nhưng còn một điểm con chưa rõ biết là thiền đạo. Xin thầy giải thích cho con hiểu về thiền đạo.
Ngay đó Thiền sư Việt Khê tát cho một tát tay. Ông bực tức bỏ đi, đến gặp vị thủ tọa ở trong chùa. Vị thủ tọa thấy vẻ bực bội của ông, biết có chuyện nên Ngài cũng nhẹ nhàng bảo:
– Có việc gì vậy? Người học thiền cần phải bình tĩnh, có việc gì mà phải bực bội, thôi ông hãy ngồi đây uống tách trà đi.
Ông nghe vậy cũng hơi cởi mở, ngồi xuống uống trà với Ngài thủ tọa. Trong khi ngồi uống trà thì ông liền tuôn ra những lời bực bội về Thiền sư Việt Khê, đến hỏi đạo chưa gì bị tát cho một bạt tay. Bất chợt, vị thủ tọa cũng đánh vào tay ông, tách trà rơi xuống đất vỡ tan.
Vị thủ tọa mới nói:
– Vừa rồi ông nói là hiểu được Phật học, Nho học chỉ còn có chút thiền đạo là ông chưa hiểu thôi. Bây giờ đây tôi đã đem thiền đạo cúng dường cho ông rồi, ông có biết cái gì là thiền đạo chăng?
Lúc đó ông ngơ ngẩn không biết gì. Ông nghĩ Thiền đạo gì đâu, chưa chi đã bị đánh, tách trà rớt xuống đất. Vậy là cái gì chứ?
Vị thủ tọa hỏi lại lần nữa, ông cũng không biết. Vị thủ tọa mới nói:
– Thật là không xứng cho ông thấy thiền đạo của chúng ta.
Vị thủ tọa bèn cúi xuống nhặt những mảnh vỡ của tách trà lên, lấy giẻ lau khô nước trà ở trên nền đất. Rồi bảo:
– Ngoài những thứ này ra còn có thiền đạo nào nữa không?
Ngay đó ông liền tỉnh ngộ. Ông ở lại tham thiền với Thiền sư Việt Khê.
Vậy thiền đạo ở chỗ nào? Đa số người đi học thiền, cứ nghĩ thiền đạo là cái gì cao siêu trên trời trên mây. Trong khi đó Thiền sư chỉ rất là đơn giản, ngay chỗ việc làm hàng ngày của mình đây, như tách trà rớt xuống, lượm lên lau khô nước. Mọi cử chỉ chúng ta làm trong tỉnh giác, sáng suốt thì đó là thiền đạo. Sống ngay thực tại hiện tiền sáng ngời đó là thiền đạo. Như chúng ta đang làm bếp nấu nướng, làm trong tâm sáng suốt tỉnh táo đó là thiền đạo.
3. Buông chổ duyên
Do tâm con người cứ đuổi theo duyên bên ngoài, nhớ cảnh nhớ đối tượng, tâm luôn bám víu nên quên mất thực tại. Bây giờ khéo buông những chỗ tâm duyên theo đó thì sống trở về thực tại. Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Những người tu hành chẳng thể thành tựu được Vô thượng Bồ-đề, cho đến thành Thanh văn, Duyên giác hay làm quyến thuộc của ma, là đều do không biết được hai thứ căn bản, nên tu học lầm lộn.
Thứ nhất là căn bản sanh tử từ vô thủy đến nay, tức các ông cùng chúng sinh dùng tâm phan duyên làm tự tánh. Thứ hai là thể Bồ-đề Niết-bàn thanh tịnh sẵn có từ vô thủy, là thức tinh nguyên minh hay sanh ra các duyên mà bị các duyên bỏ sót. Do chúng sinh bỏ sót cái sáng suốt sẵn có nên trọn ngày tu hành mà không tự giác được”.
Cái biết nguyên vẹn, sáng ngời (thức tinh nguyên minh) hay sanh các duyên tức là nó biết cái này, biết cái kia, biết đủ thứ hết. Nhưng khi nó biết cái nào rồi thì nó chỉ nhớ cái đó thôi, mà quên mất chính nó gọi là các duyên bỏ sót. Cũng như nó biết bình hoa thì nó chỉ nhớ bình hoa mà quên mất chính nó, tức bị các duyên bỏ sót. Cho nên, tu hành trọn ngày mà không có giác ngộ. Bây giờ chúng ta khéo tu chỉ chuyển lại, nó biết cái này, biết cái kia, biết tất cả hết, nhưng không bỏ sót chính nó. Chúng ta học thiền, chỉ khéo buông những chỗ duyên đó, luôn luôn nhớ lại chính nó để nhận trở lại cái “gốc biết”. Như vậy, chúng ta cũng thấy nghe, hiểu, biết rõ ràng nhưng luôn luôn sáng ngời, đó gọi là trở về nguồn, sống với thực tại. Ngược lại, chúng ta sống mà đánh mất chính mình gọi là sống mà giống như chết, sống thiếu chủ.
Hàng ngày chúng ta sống là ai sống? Mình sống, nhưng hỏi cái gì là mình thì không biết, đó gọi là sống thiếu hồn. Có vị thầy Tây Tạng, khi qua Tây phương thấy trong nghĩa địa có những ngôi mộ xây cho người chết rất khang trang, tốt đẹp. Vị thầy Tây Tạng mới nói với những người đi theo: “Ở đây người ta xây những ngôi nhà rất tốt đẹp cho những xác chết. Rồi cũng xây những ngôi nhà rất sang trọng cho những xác sống”. Qua đây vị thầy Tây Tạng muốn nhắn nhủ cho chúng ta điều gì?
Ngoài nghĩa địa là những xác chết, còn đây là những xác sống. Tức là những người còn sống mà thiếu đi cái hồn thì giống như xác, cái xác biết đi, biết đứng, biết cử động, tới lui nhưng thiếu cái hồn nên gọi là xác sống. Như vậy nếu có mặt ngay chỗ đó, nghe vậy chúng ta thấy cũng hổ thẹn. Vì chúng ta sống mà giống như những cái xác biết cử động, biết tới lui nhưng thiếu cái hồn. Vậy chúng ta phải sống sao để thật sự gọi là có hồn, nếu không thì là những xác sống. Chúng ta sống có chủ thì cuộc sống mới sinh động đầy đủ ý nghĩa sống.
Có người phê bình đạo Phật là chán đời nói cái gì cũng vô thường, giả dối không thật. Đó là vì người nghiên cứu chưa tới, chỉ thấy trên lý thuyết Phật nói mọi thứ là giả nhưng không thấy được cái chân thật mà Phật muốn chỉ bày cho con người. Sống với cái chân thật đó mới thấy đời sống chúng ta có giá trị, nếu không thì cuộc đời này vô vị lắm. Người tu mà hiểu đúng ý nghĩa Phật pháp thì rất vui vẻ tươi sáng. Hình ảnh các vị Bồ-tát như Bồ-tát Quán Âm, Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền các ngài đâu có buồn. Nghi dung các ngài rất trang nghiêm thanh tịnh ai nhìn vào cũng muốn phát tâm tu theo. Do đó, chúng ta tu Phật phải biết được giá trị của Phật pháp, dạy con người khéo sống trở về ý nghĩa chân thật, đừng tìm kiếm xa xôi.
Tổ Lâm Tế khai thị cho học nhân như sau: “Người học hiện nay chẳng nhận được, là bệnh ở chỗ nào? Bệnh ở chỗ chẳng tự tin. Nếu các ông tự tin chẳng kịp, liền lăn xăn theo tất cả cảnh chuyển, bị muôn cảnh khác chi phối chẳng được tự do. Còn nếu các ông hay thôi những niệm rong ruổi, thì liền cùng Phật Tổ không khác”. Chúng ta cũng luôn đang đi tìm tâm phải không? Nếu là tâm mình thì sao lại đi tìm? Vậy ai đi tìm? Đó gọi là đem tâm đi tìm tâm. Như Diễn-nhã-đạt-đa ôm đầu mà chạy la lên tôi mất đầu rồi, giống như người điên. Vậy thì chúng ta có làm chuyện này không? Nếu không điên thì khỏi đi tìm. Nhiều khi chúng ta thấy người khác làm giống như chuyện điên, nhưng kiểm lại không ngờ mình cũng điên theo. Tâm chúng ta do mê lâu đời quá nên quên, bây giờ lại đem tâm đi tìm tâm. Đến khi tỉnh trở lại, mới thấy chúng ta xưa nay đầy đủ hết, đâu có thiếu gì.
Ngài Lâm Tế nhắc thêm: “Các ông muốn biết được Phật Tổ chăng, chỉ là người đang nghe pháp ở trước mặt ông đó. Người học tin chẳng kịp liền hướng ra ngoài chạy tìm kiếm, dù cho tìm kiếm được đều là tướng thù thắng của văn tự, trọn chẳng được ý Tổ sống”. Ngài Lâm Tế nhắc chúng ta muốn biết được lẽ thật cùng Phật Tổ không khác, thì chính là “người đang nghe pháp ở trước mặt” thôi. Chính đó là lẽ thật.
Phật Tổ giác ngộ cũng giác ngộ ngay chỗ đó, không đâu khác. Do người học tin chẳng kịp, mới hướng ra ngoài chạy tìm kiếm, lo học Phật, học Bồ-tát, tìm thấy Phật, Bồ-tát v.v… nhưng học được những cái đó là Phật, Bồ-tát gì? Phật, Bồ-tát trong kinh điển, trong sách vở; học Phật trong kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa. Còn Phật, Bồ-tát sống là đang ngồi nghe đây. Chúng ta có giải nghĩa được Phật, Bồ-tát thế này thế kia cũng là tướng thù thắng của văn tự. Như Phật là giác, giác gồm có tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Bồ-tát là hữu tình giác, vừa giác cho mình rồi giác hữu tình, là giác cho người. Giải thích rất hay nhưng hỏi Phật, Bồ-tát ở đâu thì không biết.
Có lần Quốc sư Huệ Trung nói chuyện với một pháp sư thời Đường, là Cung Phụng Tử Lân.
Quốc sư hỏi:
– Phật nghĩa là gì?
Ông giải thích:
– Phật nghĩa là giác.
Ngài hỏi lại:
– Vậy Phật có từng mê hay không?
Ông đáp:
– Chẳng từng mê.
Quốc sư Huệ Trung gạn lại:
– Vậy thì dùng giác để làm gì?
Ông trả lời không được.
Như vậy, vị pháp sư chỉ hiểu trên văn tự, nên chưa thấy Phật. Đó là muốn nhắc cho những người học Phật, phải học sao cho thấu được ý nghĩa sống của Phật, chứ không phải chỉ học trên văn tự. Phật chẳng từng mê, vậy dùng giác để làm gì? Nếu người khéo thì cũng có câu trả lời: do chúng sinh mê nên dùng giác để giác ngộ cho chúng sinh. Chúng ta học Phật là học đến những cái gọi là Phật pháp sống, chứ không phải chỉ học trong văn tự, chữ nghĩa.
4. Tóm kết
Thiền là sống ngay thực tại, trả về cho niệm hiện tiền sáng ngời đây thôi, chứ không gì khác. Nhiều người nghe nói thiền tưởng đâu xa xôi, nên nghe học thiền rồi sợ nắm bắt không tới. Nhưng hiểu kỹ rồi thiền đâu có xa, ngay chỗ chúng ta ngồi hiện thực nơi đây. Có lần Mã Tổ đi dạo ngoài vườn cùng với ngài Hoài Hải, thấy bầy vịt trời bay ngang qua, Mã Tổ liền hỏi:
– Đó là cái gì?
Hoài Hải thưa:
– Bầy vịt trời.
Mã Tổ hỏi:
– Bay đi đâu?
Hoài Hải đáp:
– Bay qua mất rồi.
Mã Tổ liền nắm lỗ mũi Hoài Hải nhéo mạnh một cái. Hoài Hải đau quá la lên. Mã Tổ bảo:
– Sao không nói bay qua đi!
Ngay đó Hoài Hải liền tỉnh ngộ.
Thông thường chúng ta thấy bầy vịt trời, chỉ nhớ bầy vịt trời, cho nên nó bay qua mình cũng nhớ nó bay qua. Vậy thì còn cái gì “đang biết”, “đang thấy” hiện hữu đây? Nên Mã Tổ liền nhéo lỗ mũi ngài Hoài Hải một cái. Đau quá, Hoài Hải la lên. Mã Tổ nói: “Sao không nói bay qua đi!”. Bầy vịt trời bay qua, nhưng cái gì đang biết đau, la lên đây, nó đâu có bay? Ngay đó Hoài Hải liền tỉnh ngộ. Chính đó là cái đang hiện hữu nơi mình, nó đâu có bay đi.
Cũng như chúng ta ngồi nghe pháp đây, cái gì đang nghe? Chúng ta chăm chú nghe thầy giảng, rồi chỉ nhớ theo tiếng thầy mà quên mất chính mình lúc nào không hay. Cho nên học thiền là phải học trở lại, chứ không phải cứ lo nghe tiếng này tiếng kia rồi quên mất chính mình. Đây là phải khéo sống trở về với thực tại luôn hiện hữu. Nhưng do con người có thói quen tưởng tượng, suy lường nhiều quá thành ra thấy thiền xa lạ. Chính Hòa thượng Tôn sư cũng nói: “Thiền tông thực tế đến không ngờ”, tức là sát với chúng ta đến không ngờ. Chúng ta đang ngồi có mặt đây, vậy còn phải tìm gì nữa? Lẽ thực là vậy, nhưng vì “quá thực” thành ra chúng ta cho đó là lạ. Bây giờ hiểu rõ được lẽ thực, luôn soi trở về chính mình để sống với lẽ thực đó thì không còn bị lầm nữa.
Đây xin kết thúc bằng câu chuyện thiền: Thiền sư Vô Trụ phó chúc cho người đệ tử tên Vô Hữu một công án thiền như sau:
Ngày xưa có một người đang đứng ở trên một ngọn đồi cao. Ở dưới có ba người du khách đi ngang qua đường nhìn lên thấy người kia đang đứng ở trên đồi. Ba người đi ở dưới mới bàn với nhau.
Một người nói:
– Chắc là anh ta đang mất vật gì thân yêu, cho nên anh đứng đó kiếm.
Một người khác nói:
– Theo tôi, chắc là anh ta đang đợi một người bạn thân nào đó.
Người nọ nói:
– Tôi trông thấy dáng vẻ của anh ta giống như đang đứng thưởng thức không khí mát mẻ trên cao.
Ba người tranh luận hoài không ra lẽ, mới đi lên trên đỉnh đồi gặp ngay anh đó hỏi.
Người thứ nhất hỏi:
– Này anh bạn, có phải anh đang mất một vật gì quý hay không?
Người kia đáp:
– Không, tôi không có mất gì hết.
Người thứ hai hỏi:
– Vậy là anh đang chờ người bạn thân nào đó phải không?
Anh ta nói:
– Không, tôi cũng không có chờ ai hết.
Người thứ ba hỏi:
– Vậy thì anh đang đứng đây hóng mát chớ gì?
Anh ta nói:
– Cũng không phải luôn.
Ba người mới cùng gạn hỏi:
– Vậy thì tại sao anh bạn đứng đây, mà chúng tôi hỏi cái gì anh cũng nói không phải hết?
Anh kia nói:
– Tôi đứng đây chỉ là đứng đây thôi!
Rất là đơn giản, đứng đây chỉ đứng đây thôi. Những người kia là đại diện cho chúng ta đang ngồi đây. Bởi vì trong đầu của chúng ta luôn luôn có vấn đề, cho nên nghĩ người ta đứng đó cũng phải có vấn đề, gọi là suy bụng ta ra bụng người. Như vậy là sống mà quên mất thực tại, lẽ thật người đứng đó là đứng đó thôi, nhưng theo thói quen chúng ta nghĩ đứng đó là phải có vấn đề gì, nên bàn theo những vấn đề do ta suy diễn. Đây là một công án thiền, để nhắc nhở đánh thức cho tất cả người học thiền thấy rõ trong tư tưởng của mình nó quen suy nghĩ, quen có vấn đề, sống mất mình là chỗ đó.
Bây giờ, chúng ta tập sống trở về thực tại, “ngay đây và bây giờ” đây. Cửa giác ngộ đang mở sẵn cho mình. Chúng ta nghe nói giác ngộ tưởng đâu xa xôi, nghĩ đó là chuyện dành cho Phật, còn mình chắc không có phần. Nhưng Phật ra đời để giác cho chúng sinh, kinh Pháp Hoa Phật nói: “Bản hoài của Phật ra đời, là để khai thị cho tất cả chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật”. Bản hoài của chư Phật ra đời là để đánh thức cho chúng sinh chân lý giác ngộ có sẵn nơi mình. Ngay nơi tâm là Phật, Phật cũng từ tâm mà Ngài giác ngộ, chúng ta cũng từ tâm mình mà mình giác ngộ. Giác ngộ ở nơi tâm chứ không phải ở chỗ khác. Cho nên, không phải tìm giác ngộ ở trong bộ kinh này, bộ kinh kia. Nhiều người cứ tìm giác ngộ ở trong kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết Bàn v.v… mà quên mất giác ngộ thực là ở ngay nơi tâm mình. Chính đó mới là lẽ thực, là sức sống chân thật có sẵn nơi mỗi người.
Vậy trong đây có ai không có tâm? Ai cũng có tâm tức là có giác. Phật Tổ thấy được lẽ thật đó, nên thương xót chúng sinh tìm mọi cách để nhắc nhở, đánh thức cho tất cả đồng giác ngộ, sáng lên lẽ thật của chính mình. Ngài Lâm Tế nói: “Người học hiện nay sở dĩ không nhận được, là bệnh ở chỗ thiếu tự tin”. Đó là đem lại một sức mạnh cho chúng sinh, mỗi người đều có tâm, đều có chân lý giác ngộ sẵn nơi mình. Gốc của chúng ta là giác ngộ chứ không phải là chúng sinh. Chúng sinh là tên gọi tạm lúc còn mê, khi giác rồi chúng ta là Phật. Chúng ta có đủ niềm tin để vươn lên, không nên mặc cảm mình là chúng sinh nghiệp nặng, khó mong giác ngộ. Phật đã chỉ rõ tất cả đều có Phật tánh, đều có tánh giác. Trong kinh Kim Cang, Phật nhấn mạnh: “Chúng sinh tức chẳng phải chúng sinh, đó gọi là chúng sinh”. Phật không nói chúng sinh cố định là chúng sinh, mà ngài nói chúng sinh tức chẳng phải chúng sinh, đó tạm gọi là chúng sinh thôi.
Như vậy, Mình là Phật tánh sáng suốt, nên phải vươn lên, tiến lên. Học thiền là sống trở về với thực tại đang sáng ngời, trở về với cái “ngay đây, bây giờ”. Có những triết lý của thế gian bàn cãi về thực tại thế này thực tại thế kia, nhưng còn bàn cãi về thực tại thì chưa thấy thực tại. Nếu đã thấy rồi thì không còn gì để bàn nữa. Còn bàn cãi là còn suy tưởng nên xa rời thực tại. Thí dụ có hai người đang nói về anh A, người nói là anh A đó cao lớn, trắng trẻo. Người nói anh A đó cũng hơi lùn lùn, da ngâm ngâm. Rồi cãi nhau hoài không ra lẽ, là vì lúc đó anh A không có mặt ở đó. Nếu thực sự anh A có mặt, chỉ cần chỉ ngay anh bảo: “Đây này!” là xong, không cần cãi. Cũng vậy, người đã thấy rõ thực tại ngay đây thì không phải cãi, còn cãi nhau về thực tại là chưa thấy thực tại. Vì vậy người học thiền cứ lo cãi nhau về thiền thì cũng chưa thấy thiền.
Thực tế, “thiền là ngay đây, bây giờ”. Mong tất cả nhận được lẽ thật này, thật sống với thiền sống, chứ không phải sống với thiền chết, để quên mất thực tại sáng ngời ngay đây!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0705665349
Liên hệ