Tìm hiểu về “chín phương trời; mười phương phật

Tìm hiểu về “chín phương trời; mười phương phật”


A/. Chín phương trời :


Hiểu theo dân gian Việt Nam gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông

Bắc, Tây Nam, Tây Bắc và trung ương.

Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời là cửu dã   hay cửu thiên   bao gồm trung ương và tám phương hướng – tức là tứ chính   (bốn hướng chính: Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung  (bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc).

Theo sách Lã Thị Xuân Thu (chương Hữu thủy lãm) đời nhà Tần, chín phương trời có tên gọi và vị trí như sau:


(1) Ở trung ương gọi là Quân Thiên   (quân: đều đặn, quân bình);

(2) Phương Đông là Thương Thiên   (thương: màu xanh biếc);

(3) Phương Đông Bắc là Biến Thiên   (biến: thay đổi);

(4) Phương Bắc là Huyền Thiên   (huyền: màu đen huyền);

(5) Phương Tây Bắc là U Thiên   (u: tối tăm, kín đáo, sâu xa);

(6) Phương Tây là Hạo Thiên   (hạo: sáng trắng);

(7) Phương Tây Nam là Chu Thiên   (chu: màu đỏ như son);

(8) Phương Nam là Viêm Thiên   (viêm: nóng, ngọn lửa);

(9) Phương Đông Nam là Dương Thiên   (dương: trái với âm).


Sang đời Hán, sách Hoài Nam Tử (chương Thiên văn) giải thích gần giống Lã Thị Xuân Thu, chỉ thay khác nhau hai điểm: phương Đông Bắc là Mân Thiên   (mân: bầu trời); phương Tây là Hạo Thiên  (hạo: sáng trắng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu).


Sách Quảng nhã (chương Thích thiên) giải thích cũng hơi khác: Phương Đông là Hạo Thiên  (hạo: rộng rãi, lồng lộng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử), phương Tây là Xích Thiên  (xích: màu đỏ). Các phương còn lại thì cũng giống giải thích của hai sách trên.


Sách Thái huyền kinh của Dương Hùng chỉ liệt kê chín tầng trời (cửu thiên) là: Trung Thiên  (Trung: ở giữa); Tiện Thiên   (tiện: dư thừa); Đồ Thiên  (đồ: không có); Phạt Canh Thiên  (phạt: hình phạt; canh: thay đổi); Tối Thiên  (tối: trọn một năm); Quách Thiên  (quách: tường thành bọc phía ngoài); Hàm Thiên  (hàm: bao gồm tất cả); Trị Thiên  (trị: sửa sang, cai trị); và Thành Thiên  (thành: thành tựu, làm xong).


Thay vì nói chín phương trời, đạo Lão quan niệm có chín tầng trời và gọi là: cửu trùng, cửu giai, cửu tiêu, cửu thiên. Một thuyết cho rằng chín tầng trời là:


(1) Uất Thiền Vô Lượng Thiên ;

(2) Thượng Thượng Thiền Thiện Vô Lượng Thọ Thiên;

(3) Phạn Giám Tu Diên Thiên ;

(4) Tịch Nhiên Đâu Suất Thiên ;

(5) Ba La Ni Mật Bất Kiêu Lạc Thiên ;

(6) Động Huyền Hóa Ứng Thinh Thiên ;

(7) Linh Hóa Phạn Phụ Thiên ;

(8) Cao Hư Thanh Minh Thiên ;

(9) Vô Tưởng Vô Kết Vô Ái Thiên .


(Tham khảo: Trương Chí Triết chủ biên, Đạo giáo văn hóa từ điển, Giang Tô Cổ Tịch xuất bản xã, 1994, trang 82).


Tuy nhiên, trong văn học khi nói chín phương trời thường ngụ ý là trọn cả bầu trời, khắp nơi khắp chốn.


B/. Mười phương Phật:


 Tức là thập phương chư Phật . Mười phương (hay thập phương) gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên trời, dưới đất (hay trung ương).


Tuy nhiên, có quan niệm cho rằng thập phương không phải là mười phương mà hàm nghĩa tất cả mọi nơi. Nói mười phương Phật hay thập phương chư Phật tức là chỗ nào cũng có Phật; Phật có ở khắp nơi.


Chín phương Trời mười phương Phật


Tiếng đời thường nói: “Chín phương Trời mười phương Phật”. Cho nên kẻ thế lầm tưởng rằng Phật lớn hơn Trời vì Trời chỉ có chín phương mà Phật lại mười phương. Lời nói cổ truyền ấy có nghĩa là kẻ thế không tu luyện lúc lâm chung thần hồn sẽ xuất ra cửu khiếu thì tất nhiên không vượt ra ngoài bầu trời đất đặng, vẫn còn trong vòng chín phương Trời. Còn người có tu luyện, nhờ phép Ðạo vận chuyển khai phá Thiên Môn (Nê Hườn cung) là cửa thứ mười, con đường duy nhất thẳng đến Thiên môn Phật cảnh; cho nên đến lúc quy liễu giác hồn xuất ra nơi đó; nếu giác hồn xuất tại Thiên môn thì tự nhiên thoát khỏi bầu Trời Ðất thẳng đền Phật phương. Từ nơi đơn điền mà muốn vượt khỏi Thiên Môn, chơn thần phải vượt qua 3 cửa.


1/. Ải thứ nhất: cung Khôn. Nơi đây có đường đi xuống mà  không có đường đi lên. Nếu không nhờ phép đạo vận hành càn khôn nghịch chuyển thì chỉ có phương giáng hạ chứ không thể thăng thượng được.


2/. Ải thứ hai: cung Khãm. Lên đến ngang lưng chỗ thận thủy là cung Khãm. Bịt bùng không nẻo qua rồi cũng phải nhờ phép chiết khãm điền Ly làm cho đường cốt tủy thông thì chơn hồn mới lên cửa Thiên Môn đặng.


3/. Ải thứ ba: cung Càn. Cửa đóng then cài kín mít cũng nhờ phép đạo vận hành biến Càn vi Khôn, chuyển Khôn thành Càn mà khai phá Thiên Môn, thông đồng Thái Cực. Nhờ vậy, mà đến khi quy liễu, mới do con đường quen thuộc là cửa thứ mười (phương Phật) mà quy nhứt bổn.


VÌ SAO GỌI LÀ MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT


Thập phương chư Phật được giải thích theo 2 cách:


1/- là các vị Phật ở 10 phương. Thập phương là: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam, phương trên, phương dưới.Ý của Thập phương chư Phật là tất cả các vị Phật ở khắp mọi nơi trong càn khôn vũ trụ


2/- là các vị Phật ở từng trời thứ 10, gọi là cõi cực lạc niết bànTrời có 36 tầng, dưới 36 từng trời còn có một từng nữa là Nhứt mạch đẳng tinh vi gọi là Cảnh Niết Bàn.Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là 9 phương trời, cộng với Niết Bàn là 10, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi 9 phương trời 10 phương Phật là do đó.


Cõi Niết Bàn là chỗ Phật ngự: Phật Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan Âm ngự nơi hướng Nam. Mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng hà sa số Phật.” Cảnh Niết Bàn là ở từng trời thứ 10, bên trên Cửu Trùng Thiên, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chưởng quản. Nơi từng trời thứ 10 nầy có: Ngọc Hư Cung ở tại trung tâm và Cực Lạc Thượng Gioi ở hướng Tây nên cũng gọi là Tây phương Cực Lạc.


KINH A DI ĐÀ CÓ ĐOẠN:

Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng:

 “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh:

 Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật… 

Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật…

 Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật…

 Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật…

 Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật… 

Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.


LẠI NỮA, KINH LỄ BÁI SÁU PHƯƠNG

Một thời đức Thế Tôn trú tại chùa Trúc Lâm gần thành Vương Xá. Vào buổi sáng Ngài đắp y mang bát đi khất thực. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn trông thấy thanh niên Sin Ga La lễ bái sáu phương đông nam tây bắc trên dưới, Ngài hỏi tại sao làm thế. Sin Ga La trả lời: Khi thân phụ lâm chung nhắn nhủ phải thường lễ bái sáu phương. Ðức Thế Tôn dạy rằng: Cách thức lễ bái sáu phương trong đạo lý thánh hiền không giống như vậy.

Thanh niên Sin Ga La thỉnh cầu đức Phật giảng dạy đạo lý ấy. Ðức Phật dạy rằng:

Nầy gia chủ, 

Phương đông được hiểu là cha mẹ

Phương nam được hiểu là thầy tổ

Phương tây được hiểu là người hôn phối

Phương bắc được hiểu là bạn bè

Phương dưới được hiểu là người giúp việc

Phương trên được hiểu là sa môn (niết bàn, pháp đạo)

Nầy gia chủ, đối với phương đông tức cha mẹ, người con nên làm năm việc:

Một là phụng dưỡng cha mẹ

Hai là làm công việc thay cha mẹ

Ba là gìn giữ gia phong

Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế

Năm là tạo phước hồi hướng

Ðáp lại, đối với con, cha mẹ nên làm năm việc:

Một là ngăn con không làm điều ác

Hai là dạy con làm việc lành

Ba là hướng dẫn nghề nghiệp

Bốn là tác thành gia thất

Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp

Ðó là cách lễ bái phương đông tức đạo nghĩa cha mẹ con cái. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

Nầy gia chủ, đối với phương nam tức thầy tổ, người học trò nên làm năm việc:

Một là giữ lòng kính trọng

Hai là quan tâm săn sóc

Ba là chăm chỉ học hành

Bốn là đáp ứng khi cần

Năm là hấp thụ những gì được truyền dạy

Ðáp lại, đối với trò, thầy nên làm năm việc:

Một là dạy trò những chuyên môn của mình

Hai là dùng phương pháp dễ hiểu

Ba là không giấu nghề

Bốn là giới thiệu tiến thân

Năm là bố trí an toàn cho trò

Ðó là cách lễ bái phương nam tức đạo nghĩa thầy trò. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

Nầy gia chủ, đối với phương tây tức người hôn phối thì người chồng nên làm năm việc:Một là đối xử hoà ái

Hai là không bạc đãi khinh khi

Ba là một dạ thủy chung

Bốn là giao quyền nội chính

Năm là tùy khả năng mua sắm tư trang cho vợ

Ðáp lại, đối với chồng, người vợ nên làm năm việc:

Một là quán xuyến công việc gia đình

Hai là cư xử với hai họ một cách đồng đều

Ba là một lòng tiết hạnh 

Bốn là gìn giữ tài sản

Năm là cần mẫn trong bổn phận.

Ðó là cách lễ bái phương tây tức đạo nghĩa vợ chồng. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

Nầy gia chủ, đối với phương bắc tức bạn bè nên làm năm việc:

Một là rộng rãi

Hai là nhã nhặn

Ba là quan tâm lợi ích của bạn

Bốn là đồng cam cộng khổ

Năm là thành thật

Ðáp lại, đối với một bạn tốt, nên làm năm việc:

Một là cảnh giác bạn trước những cám dỗ

Hai là giữ hộ tài sản khi bạn sa ngã

Ba là làm nơi nương tựa cho bạn lúc sa cơ

Bốn là không bỏ bạn lúc nguy biến

Năm là cư xử tốt với người thân của bạn

Ðó là cách lễ bái phương nam tức đạo nghĩa bạn bè. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

Nầy gia chủ, đối với phương dưới tức người giúp việc thì người chủ nên làm năm việc:Một là không giao việc quá sức

Hai là trả thù lao tương xứng

Ba là chăm sóc khi đau yếu

Bốn là chia sớt món ngon vật lạ

Năm là không bắt làm việc quá giờ

Ðáp lại, đối với chủ, người giúp việc nên làm năm việc:

Một là thức trước chủ

Hai là ngủ sau chủ

Ba là không lấy những thứ không cho

Bốn là siêng năng làm việc

Năm là giữ tiếng tốt cho chủ

Ðó là cách lễ bái phương dưới tức đạo nghĩa chủ tớ. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

Nầy gia chủ, đối với phương trên tức sa môn thì người cư sĩ nên làm năm việc:

Một là cử chỉ thân thiện

Hai là lời nói thân thiện

Ba là tư tưởng thân thiện

Bốn là luôn mở rộng cửa đón tiếp

Năm là cúng dường tứ sự

Ðáp lại, đối với cư sĩ, sa môn nên làm năm việc:

Một là hướng dẫn cư sĩ xa điều ác

Hai là hướng dẫn cư sĩ làm việc lành

Ba là luôn cư xử với tâm từ ái

Bốn là giảng giải đạo lý tường tận

Năm là chỉ đường an vui đời sau

Ðó là cách lễ bái phương nam tức đạo nghĩa tăng tục. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.Nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, thanh niên Sin Ga La bày tỏ niềm hoan hỷ: Thật vi diệu, bạch đức Thế Tôn, Chánh Pháp được giảng dạy như người lật lên những gì bị úp xuống, phơi bày những gì bị che phủ, chỉ đường cho người lạc lối, đem ánh sáng vào chỗ tối. Con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng. Xin Ngài nhận biết cho con là đệ tử từ nay cho đến trọn đời.



Như vậy, Khi ta lạy Chín phương trời, mười phương phật ta phải biết cách lạy Phật đúng nhất, lạy Phật đúng cách đó là học và làm theo các lời Phật dạy, noi gương các đức tính tốt đẹp của Phật mà làm theo.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0705665349
Liên hệ